Danh sách các tab/trang

Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

Độc tính của oxy đối với thợ lặn (P2)

Đối phó với độc tính oxy:

Khi thợ lặn cảm thấy bị độc tính oxy thì phải lập tức lên đến độ sâu nông hơn để giảm áp (áp suất của riêng phần oxy). Nếu chưa bị co giật, thợ lặn có thể tự làm điều này một cách có ý thức, nhưng nếu thợ lặn bị ảnh hưởng độc tính CNS nghiêm trọng hơn thì phải dựa vào bạn lặn.

Phổi
nhiễm độc Oxygen

Độc tính oxy xảy ra khi các tế bào trong phổi của một thợ lặn đang bị
đầu độc. Nguy cơ này thường xảy ra cho thợ kỹ thuật, bởi tình trạng này dễ xảy ra khi thợ lặn thở oxy áp lực cao trong một thời gian dài, chẳng hạn như thở oxy áp lực cao vào các điểm dừng giải nén.
Hầu hết các thợ lặn có thể hít thở một áp suất (riêng phần của) oxy là từ 1,41,5 ata trong 814 giờ trước khi cảm thấy những ảnh hưởng của độc tính oxy phổi.

Thợ lặn bị độc tính oxy thường bắt đầu với cảm giác giống như bị bỏng trong khí quản, và tiến triển đến khó thở, rồi tức ngực, rồi ho, rồi khó kiểm soát được bản thân. Nếu không hành động ngay, phổi của thợ lặn cuối cùng sẽ ngừng làm việc, và thợ lặn sẽ chết thiếu oxy.

T
rong kế hoạch lặn, thợ lặn cầnbiện pháp giải nén với CNS. Sau mỗi 20 25 phút thở khí oxy áp lực cao, thợ lặn cần thở bằng bình khí nén thông dụng trong ít nhất 5 phút. Điều này cho phép các tế bào phổi loại bỏ gốc oxy tự do đang tích lũy trong cơ thể trước khi chúng trở thành vấn đề.

Khi đào tạo
lặn sâu, thở khí nén giàu oxy, hoặc giải nén, thợ lặn phải học cách tự theo dõi ảnh hưởng khi tiếp xúc với oxy áp lực cao. Người có cơ thể nhạy cảm hơn sẽ dễ bị tác động của độc tính oxy hơn kẻ khác. Có một điều tiên quyết là khi đó thợ lặn phải ngừng tiếp xúc với oxy áp lực cao.

Có ba cách chính để theo dõi sự tiếp xúc với oxy đối với thợ lặn:

1.
OUTs – độc tính oxy đơn vị

Thợ lặn có thể theo dõi sự tiếp xúc với oxy bằng cách sử dụng độc tính oxy đơn vị (OTUs). Một OTU tương đương với thở oxy tinh khiết trên bề mặt trong một phút. Thợ lặn sử dụng biểu đồ hoặc công thức toán học để xác định OTUs của mình cho một cuộc lặn cụ thể. OTU không nên vượt quá con số 615 trong một ngày. Số OTUs được chấp nhận cần giảm dần sau mỗi ngày lặn – nếu lặn liên tục nhiều ngày.

2. Oxygen Clock

Thợ lặn cần sử dụng biểu đồ để xác định tỷ lệ phần trăm của tổng số tiếp xúc oxy cho phép của mình – với mỗi chuyến lặn. Ví dụ một cú lặn với áp suất riêng phần oxy 1,4 ata trong 60 phút lặn, sẽ vào khoảng 33% oxy cho phép với thợ lặn.

3.
Sử dụng Dive Computer

Lập trình trên Dive Computer về sử dụng Nitrox hoặc khí hỗn hợp, là cách dễ nhất để thợ lặn theo dõi tổng tiếp xúc oxy của mình. Tuy nhiên, bạn nên sử dụng một trong hai phương pháp trên như là một back-up trong trường hợp Dive Computer bị sự cố.
(hết)

Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2016

Độc tính của oxy đối với thợ lặn (P1)

(Sưu tầm, trích dịch)

Độc tính của oxy là một nguy cơ cho thợ lặn bởi nồng độ oxy cao gây ra do lặn sâu, hoặc do sử dụng các loại khí hỗn hợp. 

Khi nào Oxygen gây nguy hiểm cho thợ lặn?

Cơ thể con người chuyển hóa oxy để
cung cấp cho các tế bào. Sự trao đổi chất đối với các chức năng cần thiết, cũng như sự va chạm giữa các phân tử oxy trong tế bào sẽ tạo ra một số lượng nhỏ khí oxy tự do. Các gốc tự do có thể gây ra thiệt hại hoặc thậm chí giết chết tế bào. Bình thường các tế bào bất hoạt với các gốc tự do, nhưng khi người ta hít nồng độ oxy cao, các gốc tự do có thể tích tụ trong tế bào một cách nhanh chóng hơn. Đây là khi oxy trở nên độc hại – trong trường hợp thợ lặn tiếp xúc với áp lực cao oxy trong một cuộc lặn kéo dài.

Phải làm gì khi Oxygen trở thành độc tố?

Độc tính Oxygen
đối với hệ thần kinh trung ương (CNS):

CNS xảy ra khi các tế bào trong hệ thống thần kinh trung ương của một thợ lặn (chủ yếu trong não) bị hư h
ại. Điều này thường xảy ra khi thợ lặn sử dụng khí oxy có áp suất trên 1,6 ata. Hầu hết các trung tâm đào tạo khuyến nghị chọn áp suất tối đa 1,4 ata cũng vì lý do này.

Trong lặn biển, độc tính của oxy thường biểu hiện
như co giật, không kiểm soát được, và bất tỉnh. Cơ thể thường không có cảnh báo trước đối với cơn co giật sắp xảy ra – thợ lặn đã thực hiện một cú lặn hoàn toàn tốt đẹp và trong một thời điểm bỗng bị co giật. Bị CNS, thợ lặn sẽ mất điều khiển và chết đuối, hoặc bị chấn thương bởi áp lực động mạch phổi nếu cơn co giật làm đường thở bị đóng lại.

Nhận
ra CNS:

Trong khi ảnh hưởng chung của độc tính của oxy là co giật đột ngột, một
số thợ lặn cảnh báo đôi khi có thể nhận thấy những dấu hiệu cảnh báo và triệu chứng khác. Chúng bao gồm các rối loạn thị giác như nhìn đường hầm; dị tật thính giác như ù tai ; buồn nôn và chóng mặt ; co giậtđặc biệt là các cơ mặt ; và tâm thay đổi như dễ bị kích thích hoặc hưng phấn.

(còn nữa)

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2016

Kỹ thuật bơi sải và phản biện (P3)

Lời góp của vận động viên 2:

Chúng ta thường xem trên các diễn đàn, trong đó bơi lội trong vùng nước mở cũng giống y như bơi trong hồ bơi. Tiếc là nó không phải như vậy ! Bạn làm gì khi đang bạn phải đối mặt với sóng biển ? Lời khuyên của tôi :

- Giữ bình tĩnh
, và trở lại chính mình để đối phó sóng biển.
-
Khi bơi vùng nước mở, bạn hãy chắc chắn rằng bạn thở ra suôn sẻ trong nước, điều này sẽ giúp bạn thư giãn và chịu đựng được thán khí (hypoxic).
-
Cánh tay back stroke hơi thẳng chút xíu để cung cấp cho bạn một sự “giải tỏa mặt bằnglớn hơn trên bề mặt nước “tĩnh”.
- Tập trung vào
độ lướt (đà, trớn) trong cú stroke, rút ngắn chu kì một chút và giữ nhịp quạt tay mạnh hơn để đục một lỗqua sóng biển và chop.
- Tránh
bị trượt tay bởi sóng trong cú stroke của bạn, và bạn sẽ bị sóng nhấn chìm.
-
Cảm nhận các thách thức và lặp lại cho chính mình câu thần chú của bạn, ví dụ như “đang gặp khó khăn đấy nhưng tôi biết rằng tôi sẽ vượt qua nó một cách thoải mái”. Nghe có vẻ sến nhưng hiệu quả.

Hãy nhớ rằng mọi
VĐV, kể cả VĐV chuyên nghiệp, đều thấy bơi trong điều kiện tự nhiên là khó khăn hơn và chậm hơn so với bơi trong hồ bơi. Nhưng sử dụng những lời khuyên trên để đối phó, tôi nghĩ bạn sẽ làm tốt hơn (đạt tới 90% so với ở hồ bơi).

Nếu bạn chưa có kế hoạch bơi trong vùng nước mở, thì với một hồ bơi có nhiều VĐV đang bơi và họ khuấy động sục sôi mặt nước, thì sóng tạt do họ gây ra có thể sẽ giúp ích cho bạn. Tuy nhiên, tập bơi đường trường trong hồ bơi thực tình không hiệu quả như luyện bơi trong vùng nước mở.

Lời góp của vận động viên 3:

Như các bạn đã biết, bơi sải Smooth được rất nhiều sự ủng hộ, một cách tiếp cận đối với từng cá nhân để sửa chữa kỹ thuật stroke. Tuy nhiên, trong kỹ thuật khoan xoáy, chúng tôi đã sử dụng một số các bài tập của chúng tôi cho gần như tất cả các VĐV khi họ cần giải quyết một loạt các sai sót trong kỹ thuật stroke. Một trong những bài tập là sử dụng training fins (chân nhái luyện tập), sẽ tạo ra lực khoan mạnh mẽ nhưng thường bị hiểu lầm. Hầu hết VĐV (khoảng 80% ) bị sai sót về stroke khi tập điều chỉnh kỹ thuật thở. Đây là một điểm khúc mắc trong stroke vì hai lý do:

1. Đa số
VĐV sẽ giữ hơi thở dưới nước hơn là thở ra liên tục, đều đặn trong quá trình mặt úp xuống nước. Kết quả là họ cảm thấy thiếu oxy. Họ tập trung vào luyện thở nên đã sai sót về stroke.
2. Nhiều
VĐV chỉ thở một bên và kết quả là có thể bị lệch dần hướng.

Nếu bạn đang gặp phải một hoặc cả hai vấn đề trên, thì bạn sẽ bị thiệt thòi khá nhiều về tốc độ và hiệu quả. Và nếu bạn bơi ở vùng nước mở thì chuyện lệch hướng sẽ làm cho bạn thiệt thòi nhiều hơn. Công việc của chúng tôi là đối chiếu đường bơi của các VĐV với thiết bị GPS. Thống kê cho thấy 20% VĐV hoặc nhiều hơn bơi bị lệch – một số liệu đáng kinh ngạc. 

(hết)