Cảm
giác sợ hãi xảy ra rất thường xuyên ở con người, song nguồn gốc của nó
bắt nguồn từ đâu? (theo suckhoedoisong.vn, trích)
TS.Adam Perkins, chuyên ngành thần kinh học, bệnh
viện Maudsley, London, Anh, đã tiến hành các cuộc kiểm tra sự liên quan khi xuất
hiện cảm giác sợ hãi với hoạt động của não bộ bằng cách kết hợp quét cộng hưởng
từ trường MRI tại vùng não được xác định là nơi kiểm soát sự lo lắng, cảm xúc,
tâm trạng của con người.
Sau 9 tháng tiến
hành nghiên cứu trên nhóm người tình nguyện, trong đó chính TS. Perkins cũng là
một, nhóm nghiên cứu đã đi đến kết luận: trong não bộ có tồn tại một khu vực
được coi là trung tâm của nỗi lo lắng, sợ hãi. Vùng não này nằm ngay trong vùng
não trung tâm – hippocampus, bên trong thuỳ thái dương và chính là vùng não có
liên quan đến khả năng kiểm soát trí nhớ cũng như khả năng nhận thức của con
người. Theo dõi trên màn hình kết quả quét cộng hưởng từ trường cho thấy: bất
cứ khi nào, cảm giác sợ hãi xuất hiện, vùng não trung tâm hippocampus lại hoạt
động và biểu hiện trên hình ảnh là các vùng phát sáng giống như một đám pháo
hoa.
Thông thường, khi cảm giác lo lắng, sợ hãi
xuất hiện, con người có xu hướng “cứng đờ” cơ thể. Nó cũng xuất hiện khi phải
đối mặt với nhiệm vụ khó khăn. Khoa học gọi hiện tượng này là sự ức chế hành xử
(behavioural inhibition) do một vùng thuộc não bộ điều khiển. Điều này lý giải
cho việc tại sao một số người trở nên bị “đơ người” khi sợ hãi hoặc khi đối mặt
với một nguy hiểm đang hiện hữu, trong khi đó một số khác lại vẫn có khả năng
giữ được bình tĩnh để đối mặt với mối đe doạ và xử lý được nó.
Lo lắng, sợ hãi
là một hiện tượng phức tạp và rất khó hiểu. Chúng ta vẫn cho rằng cảm giác lo
lắng xuất hiện như một biểu hiện tất yếu, một trạng thái tự nhiên của cơ thể,
song sự thực là chỉ khi xảy ra hoạt động tích cực ở vùng não kiểm soát trạng
thái này, nỗi lo lắng sợ hãi mới diễn ra. Điều này cũng có nghĩa là chỉ cần tác
động nhân tạo khiến cho vùng não kiểm soát sự lo lắng hoạt động thì cũng có thể
khiến cho một người rơi vào tình trạng lo lắng, sợ hãi. Ngược lại, nếu muốn
chấm dứt cảm giác sợ hãi của một người, đơn giản chỉ cần tác động ức chế hoạt
động tại vùng não ấy.
Trong thí nghiệm
của mình, TS. Perkins đặt ra yêu cầu là phải khiến cho người tham gia thử
nghiệm rơi vào trạng thái lo lắng, sợ hãi bằng các tình huống thực tế. Đồng
thời với việc diễn ra trạng thái này, máy quét cộng hưởng từ trường fMRI hoạt
động ghi lại không chỉ cấu trúc của não bộ, mà còn ghi lại các phản ứng của não
và các tế bào thần kinh trong não.
Nghiên cứu của TS. Perkins không chỉ làm rõ
nguồn gốc trạng thái lo lắng, sợ hãi của người bệnh, mà còn đem lại một phát
hiện mới mẻ, thú vị, đó là, nhìn chung, những người thuận tay phải có xu hướng
dễ lo lắng, sợ hãi hơn những người thuận tay trái; phụ nữ có xu hướng xuất hiện
trạng thái sợ hãi nhiều hơn và mức độ trầm trọng hơn nam giới.
Theo TS.
Perkins, phụ nữ dễ bị cảm giác lo lắng, sợ hãi bởi những đe doạ không chỉ về
mặt thể chất mà còn bởi những ám ảnh hay tưởng tượng khác, chẳng hạn như: nỗi
sợ đám đông, sợ sự mạo hiểm, sợ bóng tối… Ngoài ra, những người đàn ông có lối
sống phóng túng thường là những người ít có biểu hiện lo lắng sợ hãi nhất. Và
theo kết quả một điều tra xã hội, thì người già có xu hướng ít bị ảnh hưởng bởi
trạng thái lo lắng và sợ hãi hơn so với người trẻ tuổi.
Và một điều đặc
biệt nữa, trái với suy nghĩ của nhiều người, rằng cảm giác sợ hãi, lo lắng là
không tốt cho sức khoẻ, kết quả nghiên cứu của TS. Perkins lại cho thấy: một
chút cảm giác sợ hãi đôi khi lại là rất tốt. Trạng thái này khiến cho mọi người
trở nên thận trọng hơn khi đưa ra các quyết định, làm giảm sự hấp tấp, vội vàng
vốn là nguyên nhân dẫn tới thất bại trong công việc. Một thử nghiệm với các trò
game tạo cảm giác mạnh đã được tiến hành. Những người chơi với tâm lý thận
trọng, đề phòng luôn đạt được số điểm cao hơn những người chơi khác. Trong cuộc
sống, điều này cũng diễn ra tương tự, những người liều lĩnh, ưa mạo hiểm nói
cách khác là những người không biết sợ đôi khi lại làm hỏng việc nhiều hơn.
Kết quả nghiên cứu trên
đây của các nhà khoa học giúp mở ra hướng đi mới và những ứng dụng mới trong
tương lai. Các thí nghiệm thực tế đã mang lại câu trả lời cho một trong những
vấn đề làm đau đầu các nhà khoa học trong nhiều năm qua về nguồn gốc và bản
chất của cảm giác sợ hãi, cũng như mối liên quan của trạng thái cảm giác này
với hoạt động của não bộ con người.
Và nếu như kết quả từ
các hình ảnh quét não có thể được phân tích làm rõ, kết hợp với các dữ liệu thu
được trực tiếp từ việc đặt ra các câu hỏi cho người tham gia nghiên cứu, các
nhà khoa học hoàn toàn có thể xác định được mức độ sợ hãi của mỗi người. Điều
này mở ra hi vọng phát triển các phương pháp trị liệu hoặc các loại thuốc mới
giúp điều trị các dạng khủng hoảng thần kinh và căng thẳng do sợ hãi và lo lắng
mang lại.